"Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học"- Tố Hữu. Sử dụng tác phẩm Bầy chim chìa

“Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt
Mỗi giọt mật thành đôi vạn chuyến ong bay”
(Chế Lan Viên)

Nếu văn học như một bản hòa tấu du dương được dệt nên từ những nốt nhạc của cuộc đời, như tấm thảm thực tại rực rỡ, thì người nghệ sĩ được ví như một nhiếp ảnh gia tài ba, biến hóa văn học qua nét bút tài tình của mình, để viết nên những tác phẩm để đời. Người nghệ sĩ trong cuộc hành trình dấn thân vào “vạn chuyến ong bay”, trải nghiệm cuộc sống để phản ánh cuộc đời, để biến “một mật” thành “trăm hoa” qua từng lăng kính chủ quan của chính mình. Có người nhìn đời bằng đôi mắt u buồn thì sự buồn bã cũng nhuốm màu lên toàn bộ cảnh vật, nhưng lại có người ngắm nhìn cuộc sống bằng đôi mắt trong veo, trẻ thơ với đầy sự tò mò thì cảnh vật tự nhiên trở nên tươi sáng, tràn đầy cuộc sống. Cuộc đời muôn hình vạn trạng qua đôi mắt của người nghệ sĩ trở nên muôn màu vạn vẻ, vô vàn nét đẹp, muôn vàn sắc thái mới mẻ, vô ngần những tư tưởng tình cảm, những triết lý nhân sinh. Để rồi: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ” (Tiếng nói văn nghệ – Nguyễn Đình Thi)

“Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ chẳng là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học.” (Tố Hữu). Vâng, và ở đó, thi nhân lấy mảnh đất thực tại làm sàn nhảy để biểu diễn những điệu nhảy độc đáo, mới mẻ, cuốn hút của mình. Thật vậy, nhận định của Nguyễn Đình Thi trong “Tiếng nói văn nghệ”: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ’’ cũng thể hiện sâu sắc điều đó. Trước hết, “vật liệu” ở đây chính là yếu tố vật chất, yếu tố nguyên liệu để làm nên tác phẩm nghệ thuật, chính là hiện thực cuộc sống bộn bề, rộng lớn, đòi hỏi nhà văn cần đào sâu, tìm tòi, khám phá để nhận ra bản chất. Nhưng nhà văn không chỉ “ghi lại cái đã có rồi” mà Nguyễn Đình Thi còn nhấn mạnh anh ta “muốn nói một điều gì mới mẻ”. “Điều gì mới mẻ” ấy chính là sự sáng tạo, sự độc đáo của người nghệ sĩ, thể hiện ở những góc nhìn riêng, những phát hiện riêng, những cách lý giải riêng mang đậm dấu ấn chủ quan của người nghệ sĩ, những triết lý nhân sinh, những thông điệp mới mẻ… Tựu trung, nhận định của Nguyễn Đình Thi đã đề cập đến mối quan hệ biện chứng giữa phản ánh và sáng tạo trong quá trình sáng tác. Một mặt, Nguyễn Đình Thi khẳng định tính hiện thực sâu sắc của tác phẩm nghệ thuật. Vì chưng, không một tác phẩm nào không khởi nguồn từ đời sống, cũng chẳng một tác phẩm nào mà không phản ánh thực tại cuộc sống. Mặt khác, Nguyễn Đình Thi đề cao sự sáng tạo, in đậm dấu ấn sáng tác, khắc sâu thông điệp, triết lý nhân sinh của người nghệ sĩ trong quá trình xử lý, dung hòa chất liệu hiện thực để dệt nên một tác phẩm.

Nhà văn Nguyễn Quang Thiều nổi tiếng với nhiều tác phẩm đặc sắc dành riêng cho độc giả thiếu nhi. Trong danh mục tác phẩm đáng chú ý của ông, không thể không kể đến "Bầy chim chìa vôi." Bài thơ này chứa đựng nhiều thông điệp ý nghĩa và tận cùng lòng kính trọng thiên nhiên.

Bài thơ mở đầu bằng việc Nguyễn Quang Thiều miêu tả tình cảm thiêng liêng của mình đối với tự nhiên. Những khung cảnh thiên nhiên đẹp tới mê hồn, bầu trời xanh trải dài và đồng lúa xanh mơn mởn được tác giả nêu bật với tâm hồn tinh tế. Điều này giúp đem lại cho chúng ta một trải nghiệm về sự kỳ vĩ và tuyệt diệu của thế giới tự nhiên, cũng như tôn vinh lòng yêu mến và tôn trọng đối với vẻ đẹp tự nhiên.

Tuy nhiên, điểm đặc biệt của bài thơ nằm ở việc Nguyễn Quang Thiều xây dựng hình ảnh động của con chim chìa vôi. Đây không chỉ là việc miêu tả một loài chim, mà đó còn là việc biến nó thành biểu tượng của sự tự do và vẻ đẹp trong tự nhiên. Sự hòa quyện giữa tiếng hót của chim và sự sống của thiên nhiên xung quanh tạo nên một đoạn thơ đầy cuốn hút và sống động.

Tác giả truyền đạt một bài học quý báu về cuộc sống thông qua sự kiên cường và dũng cảm của con chim chìa vôi. Con chim không từ bỏ trước khó khăn mà dũng cảm bay lên trước hiểm nguy. Điều này truyền đạt thông điệp về sự động viên và sự động lực trong cuộc sống hàng ngày.

Bài thơ sử dụng thể loại thơ bốn chữ, mỗi câu chứa bốn chữ. Thể loại thơ này thường dùng để thể hiện sự đơn giản, tinh tế và sâu lắng. Trong trường hợp này, nó giúp tạo ra một âm nhạc và nhịp điệu độc đáo trong bài thơ.

Nguyễn Quang Thiều đã sử dụng mô tả tinh tế để hình dung rõ nét hình ảnh của con chim chìa vôi và vẻ đẹp của tự nhiên. So sánh tiếng hót của chim như "tiếng hát của thiên thần" là một ví dụ điển hình về cách tác giả tạo nên hình ảnh sống động.

Ngôn ngữ trong bài thơ rất giản đơn và dễ hiểu, phù hợp với mọi độc giả, đặc biệt là trẻ em. Điều này làm cho bài thơ trở nên truyền cảm và cuốn hút. Tác giả cũng sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh để tạo ra hình ảnh mạnh mẽ và đáng nhớ.

Có thể thấy, bài thơ "Bầy chim chìa vôi" của Nguyễn Quang Thiều không chỉ mang giá trị nội dung về tình yêu đối với thiên nhiên và cuộc sống, mà còn thể hiện sự tinh tế trong ngôn ngữ và nghệ thuật để làm cho câu chuyện trở nên thú vị và đầy ý nghĩa.