Lễ trình Hòa ước và Thương ước Giáp Tuất ở kinh thành Huế năm 1875

Lễ trình Hòa ước và Thương ước Giáp Tuất ở kinh thành Huế năm 1875

In Stock



Total: $24.99 $29.99

Add to Cart

Chính Sách Vận Chuyển Và Đổi Trả Hàng

Miễn phí vận chuyển mọi đơn hàng từ 500K

- Phí ship mặc trong nước 50K

- Thời gian nhận hàng 2-3 ngày trong tuần

- Giao hàng hỏa tốc trong 24h

- Hoàn trả hàng trong 30 ngày nếu không hài lòng

Mô tả sản phẩm

Đôi nét về Hòa ước và Thương ước Giáp Tuất

Hiệp ước chính trị 1874 (hay còn gọi là Hòa ước Giáp Tuất) được ký giữa đại diện của triều Nguyễn gồm Chánh sứ toàn quyền đại thần Lê Tuấn, Phó sứ toàn quyền đại thần Nguyễn Văn Tường và đại diện của Pháp là Chuẩn đô đốc - Thống đốc Nam Kỳ Duperré. Hòa ước gồm 22 điều thay thế cho Hòa ước ký năm 1862, trong đó có một số điều khoản cho thấy sự bảo hộ cả về chính trị lẫn thương mại của Pháp như tại điều 3 :"Công nhận sự bảo hộ này (của nước Pháp), Đức Hoàng thượng- Nhà vua An Nam cam kết làm cho chính sách ngoại giao của ông phù hợp với chính sách ngoại giao của nước Pháp và không làm thay đổi các quan hệ ngoại giao hiện thời. Cam kết chính trị này không áp dụng đối với các thương ước. Nhưng trong mọi trường hợp, Nhà vua An Nam không thể ký thương ước với một nước nào như thương ước đã ký với nước Pháp và phải thông báo trước tiên với chính phủ Pháp". Điều 9 đề cập đến việc tự do truyền đạo, trong khi điều 11 cho phép Pháp tự do thông thương tại ba thương cảng Thị Nại (Bình Định, Ninh Hải (Hải Dương) và Hà Nội cũng như từ cửa biển sông Nhị Hà (sông Hồng) đến tận Vân Nam. Theo điều 20, để thực thi cũng như tạo thuận lợi cho việc thực thi các điều khoản, quy định của Hòa ước, một năm sau khi ký Hòa ước, Tổng thống Cộng hòa Pháp sẽ bổ nhiệm một Công sứ có ngạch tương đương Bộ trưởng bên cạnh Nhà vua An Nam, được giao duy trì hữu hảo giữa hai nước cũng như giám sát việc thực thi Hòa ước. Đổi lại, Nhà vua An Nam cũng được quyền bổ nhiệm hai đại diện tại Sài Gòn và Paris.

Thương ước Giáp Tuất ký ngày 31/8/1874 giữa đại diện của triều đình nhà Nguyễn là đại thần Nguyễn Văn Tường cùng Thị lang Bộ Lại Nguyễn Tăng Doãn và đại diện của Pháp là chuẩn đô đốc chỉ huy sư đoàn hải quân ở Biển Đông và Nhật Bản- thống đốc Nam Kỳ Lục tỉnh tạm quyền Krantz. Thương ước này gồm 29 điều, có thể được xem như sự cụ thể hóa những quy định tại điều 11 của Hòa ước Giáp Tuất. Đáng chú ý là điều 2 quy định cấm triều đình nhà Nguyễn nhập và xuất khẩu vũ khí và đạn dược. Theo điều 25, Tổng thống Pháp có thể ra lệnh điều tàu chiến đến những cảng mở cửa của vương quốc An Nam nếu cần thiết, nhằm duy trì trật tự và kỷ luật của các thủy thủ đoàn trên các tàu thương mại cũng như tạo điều kiện kiểm tra thương nghiệp của chính quyền lãnh sự. Mọi biện pháp sẽ được tiến hành để sự hiện diện của các tàu chiến này không gây bất lợi. Các tàu chiến này không phải phục tùng bất cứ quy định pháp lý nào. Điều 26 quy định, mọi chiến thuyền Pháp tuần tra bảo vệ buôn bán được đón tiếp và đối xử hòa hảo tại các cảng mở cửa của vương quốc. Điều khoản này cũng đề cập việc do có sông dẫn đến kinh thành và ở vị trí gần với kinh thành Huế nên cảng Thuận An là ngoại lệ, không một tàu chiến hay tàu buôn nước ngoài nào được phép cập cảng. Tuy nhiên, nếu được giao nhiệm vụ cấp thiết cho triều đình hay công sứ Pháp, tàu chiến Pháp có thể được phép ra vào cảng sau khi gửi đề nghị và được triều đình An Nam cho phép.

Trong điều khoản bổ sung cũng được ký ngày 31/8/1874 cho hai văn bản này nêu rõ, thành phố Hà Nội mở cửa cho người nước ngoài tự do buôn bán, thành lập một lãnh sự (Consul) và Thuế đoan ở đây, người Âu có thể sở hữu nhà và cửa hàng giống như ở Thị Nại và Ninh Hải. Sau đó, nếu Thuế đoan ở Hà Nội không cần thiết có thể được bãi bỏ và chỉ duy trì Thuế đoan ở Ninh Hải. Chính quyền của triều đình nhà Nguyễn phải cấp đất miễn phí (khoảng 5 mẫu) để xây nhà ở cho các lãnh sự như tùy tùng tại các cảng trên. Tại Ninh Hải, lãnh sự Pháp và tùy tùng tiếp tục ở trong các hải đồn nếu xét thấy cần thiết đảm bảo kiểm soát và an toàn buôn bán cho đến khi các tòa nhà được hoàn thành trên nhượng địa rộng 5 mẫu như quy định[1].

Lễ trình Hòa ước được chính phủ Pháp phê chuẩn tại kinh thành Huế[2]

Phái bộ ngoại giao đại diện cho chính phủ Pháp được thành lập tại Sài Gòn do phái viên đặc biệt, nam tước - đại úy Hải quân Brossard de Corbigny dẫn đầu cùng phái viên thứ hai, đại úy hải quân Ragnault de Prémesnil, sĩ quan thủy quân lục chiến Prioux là thông ngôn tiếng Việt và tiếng Hán, nhà nho Bá Thương (hoặc Thượng) đến từ Sài Gòn cùng một thông ngôn bản xứ tên là Nicolas. Đoàn hộ tống gồm 10 thủy thủ, 25 lính bộ hải quân do trung úy Hải quân Juin và trung  úy bộ binh hải quân Bordes chỉ huy. Ngày 04/4/1875, phái bộ này lên hai tàu tuần dương DuchaffautAntilope neo đậu ở cảng Sài Gòn, ngày 08/4 đến Đà Nẵng. Tại đây, phái bộ đã gặp các quan đại thần của Bộ Lễ được cử đến để thống nhất lại chương trình nghi thức đã được ấn định trong tháng 3. Ngày 09/4, toàn bộ thành viên phái bộ lên tàu Antilope[3] tiến về kinh thành Huế. Ngày 10/4, triều đình nhà Nguyễn cử thuyền ra đón thành viên phái bộ dự kiến sẽ về nghỉ tại tòa nhà bên hữu ngạn sông Hương, đối diện với tòa thành. Tại bến thuyền, triều đình nhà Nguyễn tổ chức nghi lễ long trọng đón tiếp phái bộ gồm một đại thần với hai hàng lính cầm lọng và giáo gắn cờ. Lính triều đình bê tráp đi đầu, dẫn phái bộ Pháp tiến về nhà nghỉ chờ đến thời điểm trình vua Tự Đức.

 Sơ đồ trình tự tiếp đón phái bộ Pháp, nguồn: báo Le Tour du Monde 

Ngày 13/4/1874, phái bộ Pháp rời nơi nghỉ chuẩn bị cho nghi lễ trọng thể chính thức diễn ra ngày 14/4/1874. Trên thuyền chở phái bộ ngoại giao, bốn cấm vệ quân khiêng chiếc bàn màu đỏ đặt bản hòa ước bằng tiếng Pháp với 4 lính cầm lọng vàng đứng xung quanh, các thành viên phái bộ ngồi trên võng do hai lính triều đình khiêng theo sau bản hòa ước lên thuyền, thuyền chở phái bộ tiến gần sát long thuyền của đức vua, đậu bên cạnh là thuyền chở bản hòa ước chính thức bằng chữ Hán. Phái bộ Pháp rời thuyền lên bờ đi giữa hai hàng lính cầm cờ tới chân thành, tiến vào Kinh thành được bảo vệ bằng tường đất và đá dày chừng 30m, bao quanh bởi đường hào khá sâu. Thành Huế được thiết kế theo hình vuông, mỗi mặt dài 3 km, có các pháo đài và được bảo vệ bởi các khẩu thần công. Sau khi đi qua cửa thành thứ nhất, phái bộ đi qua khu vực có rất đông các quan lại trong triều, nghỉ thưởng trà tại vọng lâu màu đỏ. Sau đó, hai đại thần triều Nguyễn có lính hộ tống đến mang theo bản hòa ước viết bằng chữ Hán. Đại diện hai bên cùng kiểm tra nội dung bản hòa ước được trình bày bằng chữ Hán và tiếng Pháp và sau đó đặt chúng cạnh nhau. Đoàn tùy tùng đi qua Ngọ Môn, tiến vào Hoàng thành, đi qua những hàng lính đứng nghiêm trang cùng những người mang lư hương, cờ quạt các loại, những phái viên đại diện cho hai bên tiến lên trước và trao cho nhau những bản hòa ước. Buổi tối, một số vị quan thuộc Bộ Lễ tới hướng dẫn thành viên phái bộ ngoại giao Pháp về những nghi lễ cần cử hành trước nhà vua An Nam.

Lễ trao Hòa ước đã được phê chuẩn trước Ngọ Môn theo phác họa của phái viên đặc biệt Brossar de Corbigny, nguồn: Tạp chí Illustration

Sáng ngày 14/4/1875, các thành viên phái bộ Ngoại giao Pháp mặc lễ phục được đưa bằng võng đến trước cửa Ngọ Môn, đúng vị trí của ngày hôm trước có hai hàng lính cầm giáo gắn cờ, quạt, lư hương cùng hai hàng voi trang trí đủ màu sắc dưới sự điều khiển của các quản tượng. Chính giữa khoảng sân, giữa hai hàng quân là kiệu của nhà vua được các cấm vệ quân cầm lọng vàng đứng bên cạnh. Các thành viên phái bộ tiến vào Hoàng thành, được xây dựng và bảo vệ như tường thành thứ nhất, ở hai bên lối vào có hai lính gác cưỡi trên hai con voi phủ lụa vàng thêu hình rồng, ngà và chân voi được bọc bằng vàng. Phái bộ đi vào khoảnh sân cắm cờ, những hàng quan lại cấp thấp đứng trước những hàng lính cầm khiên hoặc bồng súng, tiến vào khu bên cạnh khu thiết triều. Chừng 10 phút sau, hai đại thần mặc triều phục bước tới, dẫn phái bộ đi vào Tử Cấm Thành. Họ đi qua sân có nhiều nhạc công đang chơi nhã nhạc, tiếp đó một cánh cửa lớn sơn son thiếp vàng để vào sân đón tiếp rộng hình vuông.

 Toàn cảnh lễ tiếp kiến phái bộ Pháp của vua Tự Đức ở sân Đại Triều Nghi, nguồn: Tạp chí Illustration

Dọc hai bên sân là các cấm vệ quân cầm cờ, quạt đứng sau hai hàng gồm 200 quan lại mặc triều phục. Một tiếng hô lớn kèm theo một phát súng thần công, cánh cửa được mở ra và vua Tự Đức tiến vào và ngự trên khu khán đài đối diện với cổng vào. Ngay sau đó, vị Thượng thư Bộ Lễ quỳ trước nhà vua, tấu trình xin phép nhà vua cho phép dẫn các phái viên ngoại giao Pháp vào diện kiến, các phái viên được dẫn vào chỗ tấm thảm vuông được đặt trước mặt nhà vua. Tất cả phái viên ngoại giao Pháp ngả mũ chào, nam tước-đại úy Hải quân Brossard de Corbigny, phái viên đặc biệt thay mặt Tổng thống Pháp phát biểu, xin phép dâng trình đức vua dây đeo Bắc đẩu Bội tinh và danh sách các món quà chính phủ Pháp gửi tặng đức vua.

Vua Tự Đức tiếp kiến phái bộ ngoại giao Pháp, phác họa do phái viên đặc biệt Brossard de Corbigny thực hiện, nguồn: báo Le Tour du Monde

Những lời cảm ơn của vua Tự Đức được truyền hô to theo nghi thức và được thông ngôn Prioux dịch sang tiếng Pháp. Sau những chào hỏi tiếp theo, các thành viên phái bộ ngoại giao Pháp rút lui theo trình tự như nghi lễ tiến vào. Khi nghỉ dùng trà ở Dịch quán và vua Tự Đức sau đó đã cử người đến hỏi han tình hình thành viên phái bộ.

Ngày 25/04/1875, phái bộ này trở lại Sài Gòn.


[1] . Ngày 23/11/1874, Nguyễn Văn Tường đại diện cho triều đình Huế ký phụ lục có một số thay đổi trong điều 2 của Thương ước ký ngày 31/08/1874

[2] . Tạp chí Illustration (Pháp) số ra ngày 12/06/1875 và bài viết "Tám ngày đi sứ ở Huế" của Brossard de Corbigny (2 kì, Le Tour du Monde, năm 1875) miêu tả chi tiết về lễ trao Hòa ước đã được chính phủ Pháp phê chuẩn tại kinh thành Huế.

[3]. Do kích thước quá lớn không thể di chuyển trên sông dẫn vào kinh thành Huế, tàu Duchaffaut buộc phải ở cửa Thuận An.