Mô tả sản phẩm
Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848) là một trong những nữ thi sĩ nổi tiếng của văn học Việt Nam thế kỷ XIX. Bà để lại cho đời một số bài thơ chữ Nôm với phong cách trang nhã, thanh thoát, thường thể hiện nỗi niềm hoài cổ và tình yêu quê hương đất nước. "Chiều hôm nhớ nhà" là một trong những tác phẩm tiêu biểu của bà, thể hiện nỗi nhớ quê da diết trong buổi chiều tà.
Phân tích nhan đề bài thơ
Nhan đề "Chiều hôm nhớ nhà" đã gói trọn cảm xúc chủ đạo của toàn bài. "Chiều hôm" là thời khắc gợi buồn, dễ khơi gợi nỗi niềm xa xứ. "Nhớ nhà" là tâm trạng chủ đạo, là nỗi hoài niệm về quê hương, gia đình. Sự kết hợp giữa không gian và tâm trạng tạo nên một nhan đề giàu sức gợi, dự báo một bài thơ trữ tình đầy cảm xúc.
Phân tích khổ thơ đầu
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn"
Hai câu thơ mở đầu đã vẽ nên một bức tranh chiều tà đầy thi vị. "Bảng lảng" gợi sự mờ ảo, phảng phất của ánh chiều tà. "Tiếng ốc" và "trống đồn" là những âm thanh đặc trưng của buổi chiều quê, vừa gợi không khí làng quê Việt Nam, vừa tạo cảm giác xa vắng, cô liêu. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được sử dụng tài tình khi cảnh vật đã thấm đẫm tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Phân tích khổ thơ thứ hai
"Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn"
Hình ảnh "ngư ông" và "mục tử" là những hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ, tượng trưng cho cuộc sống bình dị nơi thôn dã. Động từ "về" và "lại" diễn tả sự trở về, gợi lên nỗi nhớ nhà da diết của tác giả khi chứng kiến cảnh mọi người trở về sum họp gia đình trong khi mình vẫn xa quê. Sự đối lập giữa sự đoàn tụ của người khác và nỗi cô đơn của bản thân càng làm nổi bật tâm trạng nhớ nhà.
Phân tích khổ thơ thứ ba
"Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn"
Hai câu thơ tiếp tục vẽ nên bức tranh thiên nhiên buồn với hình ảnh "chim bay mỏi" và "sương sa". "Chim bay mỏi" gợi lên sự mệt mỏi, đơn độc, cũng như tâm trạng của nhà thơ trên bước đường xa xứ. "Dặm liễu sương sa" là hình ảnh đẹp nhưng buồn, gợi sự lạnh lẽo, cô đơn. Cụm từ "khách bước dồn" diễn tả bước chân vội vã của người lữ khách, càng làm nổi bật nỗi nhớ quê hương da diết.
Phân tích khổ thơ cuối
"Thương hải tang điền ai dễ biết
Trông vời cố quốc chạnh niềm riêng"
Đây là hai câu thơ thể hiện rõ nhất tâm trạng của tác giả. "Thương hải tang điền" (bể dâu biến đổi) là điển tích quen thuộc trong văn học cổ, nói về sự đổi thay của cuộc đời. Câu thơ thể hiện nỗi niềm hoài cổ, nhớ về quá khứ vàng son đã qua. "Trông vời cố quốc" là hành động hướng về quê hương với tất cả nỗi nhớ thương. Từ "chạnh" diễn tả sự xúc động, bồi hồi khi nhớ về quê nhà.
Nghệ thuật sử dụng ngôn từ
Bài thơ sử dụng ngôn ngữ trang nhã, hình ảnh thơ giàu tính tượng trưng. Bà Huyện Thanh Quan đã vận dụng tài tình các biện pháp tu từ như điệp ngữ ("về", "lại"), đảo ngữ ("gác mái ngư ông", "gõ sừng mục tử"), cùng với hệ thống từ láy ("bảng lảng", "văng vẳng") tạo nên nhạc điệu du dương, buồn man mác cho bài thơ.
Giá trị nội dung và tư tưởng
"Chiều hôm nhớ nhà" không chỉ là nỗi nhớ quê hương của một cá nhân mà còn thể hiện tình yêu đất nước sâu sắc. Bài thơ phản ánh tâm trạng chung của nhiều trí thức đương thời trước sự thay đổi của thời cuộc. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của một nữ sĩ tài hoa, vừa mang nỗi niềm hoài cổ, vừa chan chứa tình yêu quê hương đất nước.
Kết luận
"Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một kiệt tác thơ Nôm, kết tinh tài năng và tâm hồn của nữ sĩ. Bài thơ không chỉ thể hiện nỗi nhớ quê da diết mà còn là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp với ngôn ngữ trang nhã, hình ảnh thơ giàu sức gợi. Qua bài thơ, chúng ta thêm trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống và hiểu sâu sắc hơn về tâm hồn người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử.
Xem thêm: đề kiểm tra ngữ văn 10 giữa kì 2 - kết nối tri thức